Tên di sản : Đền thờ Tống Văn Mẫn
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 153/QD-UBND
Giới thiệu
Đền thờ Thái sư Tống Văn Mẫn nằm ở trung tâm làng Vũ Hạ - một làng quê trù phú, sầm uất từ bao đời nay, cách đền thờ vị anh hùng dân tộc Lê Hoàn khoảng 200m về phía tây.
Từ Vũ Hạ đi về phía tây nam, bên cạnh đê sông Lê (Lam Giang) ở cách đồng Lỗ Xũy – xứ Yên Lãng (Phú Yên) có lăng bà Đặng Thái hậu, mẹ Lê Hoàn. Cũng từ Vũ Hạ đi về phía đông nam 4 cây số, bên cạnh dòng Cầu Chày là làng Phong Mỹ (Xuân Tân), quê hương Lê Đột, bố nuôi Lê Hoàn.
Nằm ở giữa vùng đất có các dòng sông bao bọc, Vũ Hạ có rất nhiều thuận lợi về giao thông thủy bộ từ xa xưa. Giờ đây, vị trí này vẫn còn nhiều mặt thuận lợi. Có thể nói, địa điểm xây dựng ngôi đền thờ Tống Văn Mẫn ở làng Vũ Hạ chẳng những là vị trí có nhiều thuận lợi về giao thông thủy bộ mà còn là nơi có cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ và các công trình văn hóa kiến trúc tiêu biểu.
Về quy mô cấu trúc:
đền thờ bao gồm nhà tiền đường và hậu cung. Nhà tiền đường gồm 3 gian, hai chái với diện tích 40m2. Nhà chính tẩm là một gian được xây lồi về phía sau ở gian giữa để bàn thờ và đồ thờ. Bố cục toàn bộ khu tích theo kiểu chữ đinh. Phía trước là sân nhỏ với diện tích 30m2, tiếp đó là vườn đền được trồng cây lưu niên.
Về nghệ thuật kiến trúc:
Điều trước hết đáng chú ý ở đây là kiến trúc gỗ theo lối cổ truyền dân tộc (có nghĩa là các thành phần cấu trúc của vì kèo gỗ), đều theo kiểu “vì kèo suốt giá chiêng”. Ở mỗi vì kèo có 4 hàng chân cột, hai hàng cột sau và hai hàng cột trước (trong đó có 1 cột hiên ngoài). Kèo được ráp vào đầu các cột, còn các cột lại liên kết với nhau bằng hệ thống xà thượng, xà đại, xà con, xà hạ. Trếnh được nối giữa hai cột cái và các “xuyên” nối giữa các vì kèo; hai trụ đè lên quá giang. Với lối nhà có bốn hàng chân cột như vậy, còn tạo thêm hiên đền thờ bằng cách đặt thêm vào vì kèo một cái kẻ, vươn qua chiều ngang của hiên, một đầu tì trên kẻ bẩy ở cột con, một đầu ăn mộng vào đầu cột hiên.
Ở phần ngăn cách giữa nhà trong và mái hiên là 3 cửa ra vào làm bằng gỗ theo kiểu bức bàn. Khi bước vào nhà thờ phải bước qua bạo cửa. Hiện nay, những cánh cửa bức bàn này đã bị hư hỏng hết và được thay thế bằng cửa cót đóng khung.
Đặc biệt ở phía trên cửa được liệt một lớp ván thành những ô nhỏ khác nhau nhằm để trang trí thêm những bức vẽ chữ Thọ và các ô trống được trang trí các con tiện,…Những ô trống và ô ngăn này có tác dụng tăng thêm vẻ đẹp thẩm mỹ duyên dáng của kiến trúc ngôi đền.
Ở phía ngoài, toàn bộ phần ngõa đã bị hư hỏng nặng. Các đại bờ, bờ nóc, bờ giải, cột hiên đã bị xuống cấp nghiêm trọng, phần mái được lợp ngói mũi,…
Các hiện vật trong di tích:
Những hiện vật có giá trị trong di tích gồm có:
Ngai thờ và bài vị.
Một mâm bồng gỗ sơn son thếp vàng.
Một cây đèn gỗ.
Một chúc thư.
Hai ống hương loại to (gỗ).
Hai giá gương.
Bốn bát hương, trong đó có 3 chiếc loại da lươn cổ và 1 bát hương gốm thời Lê mạc.
Đặc biệt, đền thờ còn giữ được 4 câu đối gỗ có giá trị về nội dung lịch sử cũng như mỹ thuật. Một đôi ghi “giáp thân niên tạo” và một đôi ghi “bảo đại mậu dần đông”. Ngoài ra, còn có một bức đại tự khắc chữ Hán nổi “Trinh phong” do nhà vua ban cho. Bức đại tự này do vua Minh Mạng ban cho Đền thờ họ Tống vào năm 1836.